Các địa điểm du lịch ở Huế là một trong những từ khóa được search nhiều nhất trên google về chủ đề Địa điểm du lịch ở Huế. Trong bài viết này, Nhật ký Du Lịch sẽ viết bài Tổng hợp các địa điểm du lịch ở Huế nhất định phải đi khi tới Huế.
Phương tiện, di chuyển khi Du Lịch Huế
- Máy bay: Sân bay Phú Bài vừa mở cửa sau thời kì nâng cấp để phục vụ du lịch Huế. Hàng ngày đều sở hữu chuyến bay từ TP.HCM và Hà Nội tới Huế với nhiều hãng như Vietnam Airlines, VietjetAir, Jetstar giá vé khoảng trong khoảng 800K/chiều.
- Tàu hỏa (Xe lửa): Từ TP.HCM và Hà Nội cũng có tàu tới Huế. Với các ai dư dả thời kì và muốn trải nghiệm cảnh đẹp trên đường đi thì nên chọn công cụ này.
- Xe khách: Rẻ và dễ dàng, nhưng tốn khoảng một ngày để di chuyển từ Hà Nội/ Sài Gòn đến Huế.
- Di chuyển trong nội ô Huế: Bạn có thể thuê xe máy để di chuyển và khám phá du hý Huế. Gía thuê trong khoảng 100-150K/xe/ngày. Tham quan Đại Nội thì nên thử xích lô để dảm nhận hết nét mộc mạc, bình dị ở đây
Cho thuê xe du lịch ở Huế
- Cho thuê xe Ford Transit 16 chỗ tại Huế, Đà Nẵng, Hội An –
- Cho thuê xe 7 chỗ Innova đời mới – 600k
- Thuê xe từ Huế đi Lăng Cô dòng xe 4-7-16-45 chỗ – 900k
- Thuê xe du hý Huế Đà Nẵng – 1.100k
- Thuê xe du lịch từ Huế đi Bạch Mã – 1.150k
ĐỊA ĐIỂM DU LỊCH TRONG THÀNH PHỐ HUẾ
Trung tình thật phố Huế tập trung số đông khách sạn dùng cho cho nhu cầu tham quan và nghỉ dưỡng của du khách. Hãy hưởng thụ cảm giác đắm mình trong một không gian tiên tiến và đẳng cấp tại 1 khách sạn 5 sao mà ko phải lo lắng nhiều về giá bán lưu trú. Nếu tới Huế để công tác, bạn cũng sở hữu thể dễ dàng tậu được khách sạn theo tên tuyến phố để thuận luôn thể cho vị trí của mình như khách sạn đường Bà Triệu, khách sạn đường Hùng Vương…
Đại Nội: Hoàng thành nằm bên trong kinh thành Huế là địa điểm trước hết bạn nên kẹ qua khi du lịch Huế. Sau hơn 100 năm, những dự án kiến trúc khổng lồ ở Đại Nội chỉ còn lại ít oi chiếm không đầy một nửa con số ban đầu nhưng vẫn có trong mình nét oai nghi của triều đình phong kiến 1 thời. Đại Nội hơi rộng, bạn nên dành thời gian khoảng 1 buổi hoặc 1 ngày để khám phá hết.
Nghe ca Huế trên sông Hương: Dòng sông Hương thơ mộng cũng là niềm kiêu hãnh của du lịch Huế. Buối tối, khi trời mát mẻ, bạn có thể sắm vé, tầm 100K, để lên thuyền nhìn ngắm đế đô cổ trong đêm và nghe những nhạc điệu mang bạn quay về dĩ vãng hàng trăm năm trước
.
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế : (nằm trong Điện Long An, ngôi điện đẹp nhất trong hệ thống cung điện triều Nguyễn) là nơi trưng bày những bộ sưu tập đồ sử dụng cổ, áo mão và đồ ngự dụng của vua chúa đời nhà Nguyễn. Kiến trúc được giữ theo lối cung đình đẹp mắt.
KHU VỰC GẦN THÀNH PHỒ HUẾ
Các lăng tẩm : Đi du hý Huế không thể không tận mắt đến xem những công trình cổ xưa huy hoàng này. Các lăng mộ của các đời vua ở Huế đều có nét riêng và các câu chuyện lịch sử thú vị. Tuy nhiên các lăng tẩm thường cách xa nhau và ko nằm trong trung tâm thành phố. Bạn nên dành thời gian thuê taxi hoặc thuê xe tự lái (tầm 300K) cho 1 tour thăm quan các lăng mộ như Lăng Tự Đức, Lăng Minh Mạng, Lăng Khải Định.
Điện Hòn Chén:Cụm di tích của du lịch Huế gồm khoảng 10 công trình kiến trúc nhiều ít khác nhau đều nằm lưng chừng khuông núi Ngọc Trản, hướng mặt ra sông Hương, ẩn mình dưới những tàng cây. Điện Hòn Chén có một vị trí quan yếu trong đời sống linh tính của người dân xứ Huế, ngôi điện độc nhất vô nhị ở Huế có sự hài hòa giữa nghi thức cung đình và tôn giáo dân gian. Đây cũng là nơi trang hoàng mỹ thuật đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19.
Chùa Thiên Mụ: Danh thắng chẳng thể bỏ qua trong hành trình Du Lịch Huế. Được xây dựng từ những năm 1.600 và được bảo tàng qua phổ thông lần, chùa Thiên Mụ thu hút phổ biến du khách bởi vẻ hoa lệ tráng lệ nhưng cũng không kém phần thanh tịnh, nên thơ. Để đến Chùa Thiên Mụ, bạn có thể đi đò dọc theo sông Hương, vô cùng lãng mạn.
Đồi Vọng Cảnh: Nằm cách thành thị khoảng 7 km. Từ Đồi Vọng Cảnh có thể nhìn thấy được sự nên thơ của thành phường Huế đặc biệt là khu Lăng tẩm của các vua Nguyễn và dòng sông Hương chảy ngang thành phố.
Núi Ngự Bình: Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng thứ 2 của tạo hoá tạo nên vẻ sơn thuỷ hữu tình của du lịch Huế. Từ lâu, ngọn núi xinh đẹp này cộng với sông Hương trong xanh đã trở thành tượng trưng của tự nhiên Huế. Từ trên núi có thể phóng tầm nhìn ra khắp các địa danh nức tiếng và cảnh bỗng nhiên thơ mộng xung quanh.
Ngoài ra quý du khách mang thể tham gia tour Huế 1 ngày ngược sòng Hương Giang để khám phá vẻ đẹp 2 bên bờ sông Hương của doanh nghiệp Elephant Tour, Mr Thanh: 0932464111
NGOÀI KINH THÀNH HUẾ CÒN CÓ GÌ
Núi Bạch Mã: Cách thành phố Huề tầm 60km. Núi Bạch Mã nổi tiếng bởi có những con suối và nhiều ngọn thác ngoạn mục. Như thác Ðỗ Quyên cao 400m, hững ngày hè, hai bên bờ thác, hoa Ðỗ Quyên nổ rộ như 2 thảm lụa hoa khổng lồ. Ở trọng điểm khu nghỉ mát mang ngọn thác Bạc cao 10m, rộng 40m. Ðứng trên đỉnh núi Bạch Mã du khách còn có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh lộng lẫy của đèo Hải Vân, núi Túy Vân, đầm Cầu Hai và ánh điện lung linh của thành phường Huế vào ban đêm.
Biển Lăng Cô, Biển Thuận An, biển Cảnh Dương: Những bãi biển hiền hòa xứ Huế luôn nằm trong top các bãi biển hấp dẫn nhất miền Trung, nơi tập trung đa dạng khách du Lịch đến Huế.
Suối nước khoáng hot Thanh Tân: Cách Huế khoảng 20km, đây là khu du lịch nghỉ dưỡng đang hút khách của du Lịch Huế. Đặc biệt ngoài tác dụng tốt với sức khỏe, làm sảng khoái tinh thần , chữa 1 số bệnh, tại đây còn xây dựng phổ thông công trình kết hợp vui chơi cho du khách.
Hoàng Thành Huế
Hoàng Thành là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế, có tính năng bảo vệ các cung điện quan yếu nhất của triều đình, các miếu thờ tiên sư cha nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Người ta thường gọi chung Hoàng Thành và Tử Cấm Thành là Đại Nội.
Hoàng Thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi tới năm 1833 đời vua Minh Mạng mới hoàn chỉnh hồ hết hệ thống cung điện với khoảng hơn 100 công trình.
Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600 mét, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung vòng quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào: Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn, phía Đông với cửa Hiển Nhơn, phía Tây với cửa Chương Đức, phía Bắc sở hữu cửa Hòa Bình. Các cầu và hồ được đào chung nói quanh đề cập quẩn phía ngoài thành đều sở hữu tên Kim Thủy.
Hoàng Thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong được xếp đặt trên 1 trục đối xứng, trong đó trục chính giữ được bố trí các công trình chỉ dành cho vua. Các dự án ở 2 bên được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính trong khoảng trong ra): “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”. Ngay cả trong các miếu thờ cũng mang sự gần xếp theo thứ tự “tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian).
Mặc dù mang rất rộng rãi công trình lớn nhỏ được vun đắp trong khu vực Hoàng Thành nhưng đầy đủ đều được đặt giữa thiên nhiên với các hồ to nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các cái cây lưu niên tỏa bóng mát vòng quanh năm. Mặc dù quy mô của mỗi công trình với khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu “trùng lương trùng lặp thiềm” (hay còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” – kiểu nhà kép hai mái trên 1 nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một chiếc ngói đặc biệt hình ống sở hữu tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu mang màu xanh) hoặc Hoàng lưu ly (nếu với màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mô típ long-vân (rồng-mây). Nội thất cung điện thường được trang hoàng theo cùng 1 phong phương pháp nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm 1 bức tranh) với hầu hết thơ bằng chữ Hán và những mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát bửu, hay theo chủ đề tứ thời).
Ngói hoàng lưu ly chỉ tiêu dùng để lợp mái những cung điện nhà vua ngự. Các cung điện của hoàng hậu, hoàng tử… sử dụng ngói thanh lưu ly. (Ảnh – PhamLH Vinh)
- Khu vực phòng vệ: gồm vòng thành bao lòng vòng bên ngoài, cổng thành, các hồ (hào), cầu và đài quan sát.
- Khu vực cử hành đại lễ, gồm các công trình:
- Ngọ Môn, cửa chính của Hoàng Thành – nơi công ty lễ Duyệt Binh, lễ Truyền Lô (đọc tên những Tiến sĩ tân khoa), lễ Ban Sóc (ban lịch năm mới).
- Điện Thái Hòa – nơi cử hành những cuộc lễ Đại Triều 1 tháng hai lần (vào ngày 1 và 15 Âm lịch), lễ Đăng Quang, lễ Vạn Thọ, lễ Quốc Khánh…
- Khu vực các miếu thờ: được bố trí ở phía trước, hai bên trục dọc của Hoàng Thành theo thứ tự trong khoảng trong ra gồm:
- Triệu Tổ Miếu ở bên trái thờ Nguyễn Kim.
- Thái Tổ Miếu thờ những vị chúa Nguyễn.
- Hưng Tổ Miếu ở bên phải Nguyễn Phúc Luân.
- Thế Tổ Miếu thờ các vị vua nhà Nguyễn.
- Khu vực dành cho bà nội và mẹ vua (phía sau, bên phải), gồm nền tảng cung Trường Sanh (dành cho các Thái hoàng Thái hậu) và cung Diên Thọ (dành cho các Hoàng Thái hậu).
- Khu vực dành cho các hoàng tử học tập, giải trí giống như vườn Cơ Hạ, điện Khâm văn… (phía sau, bên trái).
- Ngoài ra còn có kho tàng (Phủ Nội Vụ) và những xưởng chế tác đồ chuyên dụng cho hoàng gia (phía trước vườn Cơ Hạ)
- Khu vực Tử Cấm Thành nằm trên cùng một trục Bắc-Nam với Hoàng Thành và Kinh Thành, gồm 1 vòng tường thành bao nói quanh khu vực các cung điện như
- Điện Cần Chánh (nơi vua công ty lễ Thường triều).
- Điện Càn Thành (chỗ ở của vua),
- Cung Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng Quý phi),
- Lầu Kiến Trung (từng là kênh ở của vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương),
- Nhà đọc sách và những công trình khác dùng c cho nhu cầu sinh hoạt của nhà vua và gia đình như Thượng Thiện Đường (nơi chuyên dụng cho ăn uống), Duyệt Thị Đường (nhà hát hoàng cung)…
Bên trong Thế Tổ Miếu (Ảnh – tatdat_bkdn)
Đến nay, trải qua bao biến động và thời gian, hàng trăm công trình kiến trúc ở Đại Nội chỉ còn lại ít oi chiếm không đầy một nửa con số ban đầu.
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế
Bên trong bảo tàng cổ vật cung đình Huế (Ảnh – dinhthanh xuan)
Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế là 1 viện bảo tồn tại số 3, Lê Trực, Tp Huế. Tòa nhà chính của viện bảo tồn bằng gỗ, có 128 cây cột gỗ quý, trên những cột sở hữu hình chạm khắc tứ linh: long – li – quy – phụng và hơn 1000 bài thơ bằng chữ Hán. Tòa nhà này chính là điện Long An xây năm 1845 dưới thời vua Hiến tổ nhà Nguyễn, niên hiệu là Thiệu Trị. Hiện bảo tàng trưng bày hơn 300 hiện vật bằng vàng, sành, sứ, pháp lam Huế, ngự y và ngự dụng, trang phục của tôn thất nhà Nguyễn, cho khách thăm quan một mẫu nhìn nói chung về cuộc sống cung đình Huế.
Cầu Trường Tiền
Cầu Trường Tiền là một trong những cây cầu bắc qua sông Hương (Ảnh – bullbear_pn)
Cầu Trường Tiền còn được gọi là Cầu Tràng Tiền , là loại cầu dài 402,60 m, gồm 6 nhịp dầm thép ảnh vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m, được ngoài mặt theo kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía bắc thuộc xã Phú Hòa, đầu cầu phía nam thuộc phố Phú Hội; ở ngay giữa thành phố Huế.
Sông Hương
Sông Hương (Ảnh – dovitchien)
Sông Hương mang hai ngọn nguồn. Nguồn Tả Trạch xuất hành từ dãy núi Trường Sơn chảy về hướng Tây Bắc qua 55 ngọn thác hùng vĩ, nguồn Hữu Trạch ngắn hơn sau khi vượt 14 ngọn thác hiểm trở và đến ngã ba Bằng Lãng (ngã ba Tuần) hợp loại với Tả Trạch thành sông Hương thơ mộng. Sông Hương dài 30 km (nếu chỉ nhắc từ Bằng Lãng đến cửa Thuận An), độ dốc của chiếc nước so với mặt biển ko chênh lệch phổ thông nên nước sông chảy chậm. Sắc nước sông Hương trở thành xanh hơn lúc vượt qua chân núi Ngọc Trản – điện Hòn Chén, tạo nên 1 lòng vực sâu thẳm.
Sông Hương đẹp từ nguồn, uốn lượn loanh quanh co giữa núi rừng trùng lặp điệp, đồi cây, mang theo những mùi vị hương thơm của thảo mộc rừng nhiệt đới. Dòng sông chầm chậm lướt qua các làng mạc xanh tươi, rợp bóng cây của Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Ðông Ba, Gia Hội, Chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh, quyện theo mùi thơm của những loài hoa xứ Huế. Dòng sông xanh trong veo lung linh như ngọc bích dưới ánh mặt trời, những con thuyền Huế xuôi ngược, dọc ngang mang điệu hò man mác, trầm tư, sâu lắng giữa đêm khuya. Ði chơi bằng thuyền để được ngắm cảnh Hương giang thơ mộng, nghe những điệu hò, dân ca xứ Huế khi trời đêm tịch mịch là thú vui muôn thuở của bao lớp du khách….
Núi Ngự Bình
Núi Ngự Bình nhìn từ chiếc sông Hương (Ảnh – phucduong87)
Núi Ngự Bình (còn gọi là Bằng Sơn) cao 105 m, dáng cân đối uy nghi. Hai bên Bằng Sơn có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Vương triều Nguyễn khi xây dựng kinh thành Huế đang chọn núi này khiến tiền án của nền tảng phòng thành đồ sộ, kiên cố và đổi tên cho ngọn núi này là Ngự Bình.
Cùng sở hữu sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hoá, quyện vào nhau tạo nên vẻ xinh sơn thuỷ hữu tình của Huế. Từ lâu, ngọn núi xinh xinh này cùng có sông Hương trong xanh đã trở thành tượng trưng của tình cờ Huế. Người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông Hương – núi Ngự, miền Hương Ngự.
Phố đi bộ Huế
Tại phường đi bộ, có toàn bộ hàng quán ăn uống, nơi bạn mang thể easy dàng tìm thấy một trong các đặc sản của Huế (Ảnh – cungphuot.info)
Hay đơn thuần dạo chơi để thưởng thức âm nhạc trục đường phố (Ảnh – cungphuot.info)
Được khai trương vào cuối tháng 9/2017, khu phố đi bộ của Huế bao gồm những tuyến thị trấn Chu Văn An, Phạm Ngũ Lão, Võ Thị Sáu và hoạt động trong khoảng 18h00 trong 3 ngày cuối tuần. Tại khu xã đi bộ này, các bạn với thể thưởng thức phổ biến món ăn địa phương của Huế, xem các tiết mục âm nhạc đường phố hay thuần tuý chỉ ngồi nhắm nháp chút đồ uống sở hữu bạn bè.
Hệ thống Lăng tẩm ở Huế
Lăng Gia Long
Lăng Gia Long (Ảnh – Wesley Bullock)
Lăng Gia Long còn gọi là Thiên Thọ Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và tới năm 1820 mới hoàn tất. Lăng thực ra là một quần thể nhiều lăng mộ trong hoàng quyến. Toàn bộ khu lăng này là 1 quần sơn sở hữu 42 đồi, núi lớn nhỏ, trong đó với Đại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này.
Lăng Minh Mạng
Lăng Minh Mạng (Ảnh – Dirk V100)
Lăng Minh Mạng còn gọi là Hiếu lăng do vua Thiệu Trị cho xây dựng từ năm 1840 đến năm 1843 để mai táng vua cha Minh Mạng. Lăng nằm trên núi Cẩm Khê, gần ngã ba Bằng Lãng là ngành hội lưu của hai mẫu Hữu Trạch và Tả Trạch hợp thành sông Hương, cách cố đô Huế 12 km.
Lăng Thiệu Trị
Lăng Thiệu Trị (Ảnh – Thích Hô Hấp)
Lăng Thiệu Trị còn gọi là Xương Lăng nằm ở địa phận thôn Cư Chánh, xã Thủy Bằng, Thị phố Hương Thủy. Được vua Tự Đức cho xây dựng vào năm 1847 để chôn cất vua cha Thiệu Trị. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có các nét riêng. Đây là lăng độc nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng ít được tiêu dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn.
Lăng Tự Đức
Toàn cảnh khu Lăng Tự Đức (Ảnh – vnkomodo)
Lăng Tự Đức được chính vua Tự Đức cho xây dựng khi còn tại vị, là 1 quần thể công trình kiến trúc, trong đó mang nơi chôn cất vua Tự Đức tọa lạc trong 1 thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (cũ), nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành thị trấn Huế. Lúc mới xây dựng, lăng sở hữu tên là Vạn Niên Cơ, sau cuộc nổi loàn Chày Vôi, Tự Đức bèn đổi tên thành Khiêm Cung. Sau lúc Tự Đức mất, lăng được đổi tên thành Khiêm Lăng. Lăng với kiến trúc cầu kỳ, phong cảnh sơn thủy hữu tình và là một trong những lăng tẩm đẹp nhất của vua chúa nhà Nguyễn.
Lăng Đồng Khánh
Lăng Đồng Khánh (Ảnh – redmarsonearth)
Lăng Ðồng Khánh còn gọi là Tư Lăng tọa lạc giữa 1 vùng quê thuộc làng Cư Sĩ, xã Dương Xuân ngày trước (nay là thôn Thượng Hai, phường Thủy Xuân, thành thị trấn Huế). Nguyên trước đây là Ðiện Truy Tư được vua Đồng Khánh vun đắp để thờ cha mình là Kiên Thái Vương. Khi Ðồng Khánh sang chảnh bệnh và đột ngột qua đời. Vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh quốc gia gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên chẳng thể xây cất lăng mộ quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư đổi khiến cho Ngưng Hy để thờ vua Ðồng Khánh.
Lăng Dục Đức
Lăng Dục Đức (Ảnh – Hoang Nguyen)
Lăng Dục Ðức tên tự An Lăng tọa lạc tại thôn Tây Nhất, làng An Cựu, xưa thuộc thị xã Hương Thủy, nay thuộc phố An Cựu, thành phố Huế, cách trung tình thực phố chưa đầy 2 km; là nơi mai táng của 3 vua nhà Nguyễn: Dục Ðức, Thành Thái và Duy Tân. Dục Đức lên ngôi năm 1883 được 3 ngày thì bị phế truất và mất, sau này con ông là vua Thành Thái (lên ngôi năm 1889) cho xây lăng để thờ cha đặt tên là An Lăng. Năm 1954, khi vua Thành Thái mất, thi hài được mang về chôn tại địa điểm hiện giờ trong khu vực An Lăng và được thờ ở ngôi điện Long Ân. Năm 1987, hài cốt vua Duy Tân được mang về chôn cất cạnh lăng Thành Thái.
Lăng Khải Định
Lăng Khải Định (Ảnh – Marie Diaz)
Lăng Khải Định còn gọi là Ứng Lăng toạ lạc trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) bên ngoài kinh kì Huế là lăng chiêu tập của vua Khải Định, vị vua thứ 12 của triều Nguyễn. Lăng được xây dựng trong khoảng năm 1920 ngay sau khi Khải Định lên ngôi. Về kiến trúc lăng Khải Định được dương gian sau thường đặt ra ngoài chiếc kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi sự pha trộn kiến trúc Đông Tây Kim Cổ lạ thường, với những tác phẩm nghệ thuật ghép tranh sành sứ độc đáo.
Nhà vườn Huế
Một góc nhà vườn Huế (Ảnh – Phạm Đức Đạt)
Huế ko chỉ nổi tiếng sở hữu cảnh sắc thiên nhiên mơ mộng hữu tình mà còn đặc biệt hấp dẫn với chiều sâu của vẻ đẹp văn hóa ý thức kết đọng nhuần nhuỵ nơi mỗi nét kiến trúc. Cùng với các lăng mộ trầm mặc. Hoàng thành cổ kính, những ngôi nhà vườn yên ả thanh bình ở đây làm cho nên “thành phố nhà vườn” Huế.
Được xây theo luật “dịch lý” và “phong thủy”, nhà vườn Huế là tập kết của 1 hệ thống kiến trúc gần xếp theo chiều Bắc-Nam. Tuy rộng hẹp không giống nhau, nhưng nhà nào cũng với kiến trúc đại quát giống nhau, bao gồm: cổng, ngõ, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà. Cổng liên tục xây bằng gạch, lối vào ngõ thường được trồng những hàng râm bụt hoặc chè tàu cắt xén cẩn thận. Bình phong cũng thường xây bằng gạch. Sau bình phong là bể cạn sở hữu hòn non bộ, một mảnh sân rộng rồi mới đến nhà. Xung nói quanh kể quẩn nhà trồng phần nhiều cây, hoa loanh quanh năm tươi tốt.
Trong khu nhà vườn ấy, không thể không nói tới ngôi nhà rường cổ. Nhà rường thường được khiến cho bằng gỗ, chúng được cầu hỳ hóa bằng phổ biến nét văn vẻ chạm trổ, trong liên kết của kết cấu nhà, thay cho đóng đinh là công nghệ mộng tinh xảo. Nhà rường với nhiều dạng: một gian hai chái, ba gian hai chái, năm gian hai chái, nhà rường lầu… rường là cách đề cập ngắn gọn của rường cột, nhà sở hữu hệ thống cột kèo gỗ được dựng lên theo những quy phương pháp nhất định. Dù lớn tới đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng chốt, mộng gỗ để sở hữu thể lắp ráp và tháo tháo dỡ dễ dàng. Trong nhà bày sập gụ, tủ chè, treo hoành phi, câu đối, đồ đạc được bài trí phối hợp hợp lý, tạo cho nhà rường chiếc thần thái riêng biệt.
Nhìn cảnh quan 1 nhà vườn Huế, người ta easy dàng nhìn thấy được tâm hồn và bắt mắt sống của chủ nhân. Nhà vườn Huế mô tả sự hòa hợp giữa đời sống con người và cây cỏ, giữa nếp sống tinh thần và vật chất, tất cả đều bổ sung cho nhau, để tạo nên sự cân bằng trong cuộc sống.
Nhà thờ Phủ Cam
Một trong những nhà thờ lâu đời nhất ở Huế, được xây trong khoảng thời nhà Nguyễn rồi lại bị triệt phá vì vua chúa cấm đạo gay gắt, rồi tiếp tục xây định hình dưới thời Pháp thuộc. Nhà thờ được hoàn thiện trong sắp 40 năm vì lý do chiến tranh, bom đạn. (Ảnh – caracat)
Nhà thờ chính tòa Phủ Cam là nhà thờ chính tòa của Tổng Giáo phận Huế, tọa lạc trên đồi Phước Quả, thuộc địa phận thị trấn Phước Vĩnh, thành phường Huế. Đây là 1 trong các nhà thờ to lớn, nổi tiếng và lâu đời nhất tại Huế. Ngôi nhà thờ hiện nay được xây theo lối kiến trúc hiện đại, do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế.
Về kiến trúc, mặt bằng xây dựng nhà thờ mang dạng thánh giá, đầu hướng về phía Nam đuôi hướng Bắc. Nhà thờ sở hữu kết cấu theo kỹ thuật xây dựng tiên tiến nhưng phần trang trí vẫn theo nghệ thuật cổ điển của phương Tây. Các trụ đỡ được đúc sát vào tường, chạy uốn cong dần về phía trước, mềm mại. Bốn góc mỗi góc sở hữu ba trụ đỡ vươn dần ra, tạo thành một không gian quá đủ rộng ủ ấp kín Cung thánh và bàn thờ.
Lòng nhà thờ rộng, có thể cất được 2500 người đến dự lễ. Có hai dãy cửa gương màu nằm ở phần trên bên trong lòng nhà thờ cung ứng ánh sáng cho nội thất. Cung thánh là một hình tròn có những cấp đi lên, trên cung là một hình tròn nhưng nhỏ hơn với bàn độc bằng đá cẩm thạch nguyên khối.
Hồ Tịnh Tâm
Hoa Xoan bên Hồ Tịnh Tâm (Ảnh – Lê Nhật Quang)
Hồ Tịnh Tâm là một trong các thắng cảnh nổi tiếng của đất Kinh thành, nay thuộc địa phận phố Thuận Thành, Thành thị trấn Huế. Nguyên xưa, hồ là 1 đoạn sông Kim Long được cải tạo lại, tên ban đầu là ao Ký Tế. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều Nguyễn đang huy động đến 8000 binh quân nhân tham gia vào việc cải tạo hồ, biến nó trở thành một Ngự Uyển của Hoàng gia. Sau khi hoàn thành, hồ sở hữu tên mới là Tịnh Tâm.
Hồ Tịnh Tâm có phương diện hình chữ nhật, chu vi sắp 1500m (354 trượng 6 thước). Trên hồ mang ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Đảo Bồng Lai, ở phía nam hồ, chính giữa với điện Bồng Doanh, 3 gian 2 chái, mái trùng diêm, lợp ngói Hoàng lưu li. Điện xây mặt về hướng nam, có lan can gạch bao quanh, phía trước lại có cửa Bồng Doanh, rồi cầu Bồng Doanh nối đảo có bờ hồ phía nam. Phía đông điện Bồng Doanh có nhà Thủy tạ Thanh Tâm, quay mặt về hướng đông. Phía tây điện sở hữu lầu Trừng Luyện, quay mặt về hướng tây. Phía bắc là cửa Hồng Cừ và một chiếc cầu cùng tên.
Trên đảo Phương Trượng, chính giữa mang gác Nam Huân, quay mặt về hướng nam, 2 tầng, mái lợp ngói hoàng lưu li. Phía nam có cửa Bích Tảo và cầu Bích Tảo. Phía bắc đảo mang lầu Tịnh Tâm, xây mặt hướng bắc. Phía đông với nhà Hạo Nhiên (từ năm 1848 đổi thành Thiên Nhiên), quay mặt về hướng đông. Phía tây có hiên Dưỡng Tính quay mặt về hướng tây. Giữa 2 đảo với đình Tứ Đạt nằm giữa 1 hệ thống hành lang mái lợp ngói gồm 44 gian, chạy nối vào cầu Bích Tảo ở phía nam và cầu Hồng Cừ ở phía bắc.
Giữa hồ Tịnh tâm với đê Kim Oanh nối liền từ bờ đông qua bờ tây. Phía đông đê với cầu Lục Liễu, 3 gian, mái lợp ngói. Phía nam, đê gắn với 1 hành lang dài 56 gian, ở giữa là cầu Bạch Tần. Phía nam cầu sở hữu nhà tạ Thanh Tước để thuyền vua ngự. ở đoạn cuối phía tây của hành lang lại mang nhà Khúc Tạ, thông với 1 nhà tạ khác, là Khúc Tạ Hà Phong qua một hành lang nhỏ dựng trên mặt nước. Phía nam nhà tạ này là đảo Doanh Châu.
Trên các góc của đảo Bồng Lai, Phương Trượng đều có xếp đá tạo những giả sơn. Riêng đảo Doanh Châu được tạo dáng như một hòn non bộ lớn nổi trên mặt hồ. Khắp kênh chung nói quanh kể quẩn đảo Bồng lai, Phương Trượng, đê Kim Oanh và dọc bờ hồ đều trồng các chiếc liễu trúc và những thứ hoa cỏ lạ. Dưới hồ chỉ trồng duy nhất loại sen trắng.
Hồ Tịnh Tâm được ngăn cách mang bên ngoài bằng một vòng tường gạch xây hơi cao. Ở bốn mặt trổ bốn cửa: Hạ Huân ở phía nam, Đông Hy ở phía bắc, Xuân Quang ở phía đông và Thu Nguyệt ở phía tây…
Ảnh – AgelsGold
Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, nhưng cực kỳ hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành quả tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Viet Nam thế kỷ XIX. Cảnh đẹp của hồ đã tạo nguồn thi hứng và trở thành đề tài cho phổ thông bài thơ, chùm thơ lừng danh của những vua Nguyễn như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… Nổi bật hơn cả luôn luôn là bài Tịnh Hồ Hạ Hứng, nằm trong chùm thơ ca ngợi 20 cảnh xinh đất Thần Kinh của vua Thiệu Trị. Đương thời, bài thơ này cùng sở hữu phong cảnh hồ Tịnh Tâm được vẽ vào tranh gương để treo ở những cung điện.
Từ cuối thế kỷ XIX, do thiếu điều kiện chăm sóc, các kiến trúc ở khu vực hồ Tịnh Tâm bị hư hỏng dần hoặc bị triệt giải. Năm 1946, vòng tường gạch bao vòng vèo hồ bị phá để xây dựng một vòng tường rẻ hơn. Năm 1960, trên nền điện Bồng Doanh cũ có dựng một ngôi đình bát giác nhỏ để kỷ niệm. Trong lần sửa sang này một cây cầu bê tông đã được xây dựng để nối đảo Bồng Lai sở hữu đê Kim Oanh…
Sông An Cựu
Sông An Cựu (Ảnh – Trần Minh Tâm)
An Cựu là tên 1 con sông nhỏ, chi lưu của sông Hương, ở phía Nam đế đô Huế. Sông sở hữu nhiều tên gọi giống như Lợi Nông, Phủ Cam, Đại Giang, Hà Tự, Cống Quan, tên rộng rãi ở Huế là sông An Cựu. Toàn bộ dòng sông dài khoảng 30km, bắt đầu lấy nước sông Hương trong khoảng đoạn cuối cồn Dã Viên, chảy qua địa phận Thành phố Huế, huyện Hương Thủy rồi đổ vào phá Hà Trung. Từ khi những chúa Nguyễn lựa chọn Kim Long, rồi Phú Xuân là thủ phủ của Đàng Trong, 2 bên bờ sông An Cựu đã là nơi tập trung dinh thự, nhà vườn của các quan lại, quý tộc. Tuy nhiên khi này sông còn nhỏ, nhiều đoạn cạn hẹp. Năm Gia Long 13 (1814), sau lúc khảo sát tình ảnh và hỏi ý kiến các vị bô lão ở phố Thanh Thủy, nhà vua đang cho khơi đào thêm sông An Cựu và cho đắp đập Thần Phủ ở phía dưới để quét nước tưới tiêu, rửa mặn cho hành vạn dòng ruộng ở khu vực này. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), sông An Cựu được đổi tên thành sông Lợi Nông. Bia đá khắc tên này vẫn còn. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835) khi đúc Cửu Đỉnh, hình ảnh và tên sông đang được khắc vào Chương Đỉnh.
Các ngôi chùa xinh ở Huế
Chùa Thiên Mụ
Chùa Thiên Mụ tốt còn sở hữu tên gọi là chùa Linh Mụ (Ảnh – cungphuot.info)
Chùa Thiên Mụ tốt còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung thực bụng phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn trước tiên ở Đàng Trong.
Truyền thuyết nói rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi coi xét địa thế ở đây nhằm phù hợp bị cho mưu đồ mở rộng cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng tộc Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp 1 ngọn đồi nhỏ nhô lên bên chiếc nước trong xanh uốn khúc, thế đất giống như hình một con rồng đã quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này sở hữu tên là đồi Hà Khê.
Tháp Phước Duyên (Ảnh – cungphuot.info)
Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói sở hữu mọi người: “Rồi đây sẽ có một vị chân chúa tới lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh”. Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng nhường nhịn như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng 1 ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là “Thiên Mụ”.
Chùa Huyền Không Sơn Thượng
Cổng chùa được vun đắp đơn giản, không quá cầu kỳ như các ngôi chùa khác (Ảnh – cungphuot.info)
Huyền Không Sơn Thượng tọa lạc tại thôn Chầm, phường Hương Hồ, Thị thị trấn Hương Trà là một ngôi chùa nổi tiếng, một thắng cảnh của cố đô Huế. Chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông, được Thượng tọa Giới Đức khai sơn năm 1989. Chùa nằm giữa khu rừng thông nói quanh nói quẩn năm xanh tươi, mát mẻ, chim hót líu lo.
Không gian chùa xanh mát có đủ các mẫu cây (Ảnh – cungphuot.info)
Huyền không Sơn Thượng nằm ở lưng chừng núi với vẻ đẹp kỳ lạ, huyền ảo. Chùa không mang cổng Tam quan to lớn mà cổng chùa chỉ bình thường như cổng của 1 ngôi nhà sân vườn Huế. Khuôn viên chùa là một khu vườn xanh ngắt với những mẫu suối nhỏ nở đầy bông súng tím, những giò hoa phong lan quý, những cây sứ, thiên tuế, tùng, bách … cổ thụ hàng trăm năm tuổi, không gian êm đềm thanh bình. Khu vực chùa mang Chánh điện, Am mây tía, Nghinh lương đình, Nhà khách, Chúng hòa đường (nhà sinh hoạt), Quá thiện đường (nhà ăn), Tăng xá, Cốc liêu chư Tăng-Ni, cây cảnh…
Chánh điện là biến thể của 1 ngôi nhà rường Huế với phong cách kiến trúc và chất liệu truyền thống để giữ dáng dấp hồn Huế, hồn Việt, lấy sự hài hòa với thiên nhiên, với hồn thơ làm ý tưởng chủ đạo; nhẹ vai trò tín ngưỡng, trọng tâm là hướng sống thiền, sống đạo.
Đặc biệt, rất phổ biến các dòng lan với đủ những màu sắc rực nhãi con được trồng trong chùa (Ảnh – cungphuot.info)
Am mây tía là nơi ở, thư phòng, nơi tiếp khách và vạch thư pháp của sư trụ trì. Đây cũng là kênh những bồ thích văn học thi phú, nghệ thuật thư pháp tìm đến để đàm đạo, bình thơ, luyện bút, khoe chữ…
Yên Hà các là ngành đón khách, có các con phố nét kiến trúc uyển chuyển, mái ngói, cột trụ, nội thất màu cánh gián, giản dị, đầm ấm. Nghinh lương đình, nơi khách thập phương giới hạn chân nghỉ ngơi, thưởng trà, đàm đạo…
Chùa Từ Đàm
Chùa Từ Đàm (Ảnh – Thiên Bình Trương)
Chùa Từ Đàm là 1 ngôi chùa cổ tiếng tăm ở Huế; hiện tọa lạc tại số 1 đường Sư Liễu Quán, thuộc thị trấn Trường An, thành xã Huế.
Chùa do Thiền sư Minh Hoằng – Tử Dung khai sơn vào khoảng cuối thế kỉ XVII, và sau ấy được đặt tên là chùa Ấn Tôn (hay Tông), với ý nghĩa là “lấy sự truyền tâm khiến cho tông chỉ.
Chùa Từ Hiếu
Chùa Từ Hiếu (Ảnh – nguyen.duchuyy)
Chùa Từ Hiếu hay Tổ đình Từ Hiếu là tên 1 ngôi chùa ở thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phường Huế. Chùa là 1 trong những ngôi cổ tự to và là một danh lam có tính văn hoá và lịch sử của cố đô Huế.
Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong 1 rừng thông trên 1 vùng đồi của xã Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước sở hữu khe nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng.
Trước cổng chùa mang ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896 dùng khiến cho nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng mang mái che và ngay trước các con phố lát gạch để vào chánh điện là 1 hồ bán nguyệt trồng sen và nuôi cá cảnh. Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn 2 chái, trước là chính điện thờ Phật, sau là Quảng Hiếu Đường. Ở khu nhà hậu sở hữu án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông.
Hai bên sân chùa có hai lầu bia để ghi lịch sử vun đắp chùa. Chùa được xây theo kiểu chữ khẩu (口), chính điện ba căn, hai chái, phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị Thái giám…, bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là Hữu Ái Nhật (nhà khách).
Lăng mộ Thái giám triều Nguyễn trong khuôn viên chùa
Xung nói quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có hơi nhiều lăng mộ các vị phi tần của những chúa Nguyễn. Do địa thế đẹp, yên tĩnh lại ko xa thành thị Huế nên ngành đây là kênh điểm vui chơi dã ngoại của giới trẻ Huế vào những ngày nghỉ, ngày lễ. Chùa Từ Hiếu là 1 trong những ngôi chùa cổ đón khách du hý trong và ngoài nước đông nhất cố đô Huế.
Chùa Báo Quốc
Chùa Bảo Quốc (Ảnh – Trần Thái Hòa)
Chùa Báo Quốc tọa lạc trên đồi Hàm Long trên đất xưa gọi là làng Thụy Lôi, gần với xóm Lịch Đợi. Từ đây nhìn xuống hướng đông là đường Điện Biên Phủ (con con đường dẫn lên đàn Nam Giao) và nhìn về hướng bắc là ga xe lửa. Chùa do Hoà Thượng Giác Phong, người Quảng Đông, Trung Quốc, khai sơn vào cuối thế kỷ 17 dưới đời vua Lê Dụ Tông và đặt tên là Hàm Long Tự. Sau đấy Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ban sắc tứ Báo Quốc Tự vào năm 1747. Hiện luôn luôn còn tấm biển vàng thếp vàng và những bức liễu trong khoảng thời ấy. Thời Tây Sơn chùa bị sử dụng làm mướn xưởng.
Chùa Thiền Lâm
Chùa Thiền Lâm (Ảnh – kimanh_1520)
Chùa Thiền Lâm do Hoà thượng Hộ Nhẫn có mặt trên thị trường năm 1960. Nguyên do vào năm 1958, Giáo hội đề cử Ngài trong khoảng Tam Bảo về trụ trì chùa Tăng Quang; sau một thời kì ngắn Ngài nhận thấy hạnh độc cư thiền định, đầu đà Tam y Nhất bát nuôi online bằng khất thực không thích hợp ở đây, nên vào năm 1960 Ngài đến thôn Thượng II, xã Thuỷ Xuân, dựng một am thất nhỏ ở ngọn đồi Quảng Tế (nay là Thôn Thượng II, Xã Thuỷ Xuân, Thành thị trấn Huế) để tu hành.
Chùa Thiền Lâm (hay còn gọi chùa “Phật đứng – Phật nằm”) được sư Hộ Nhẫn vun đắp năm 1960 sở hữu hình hài ban đầu chỉ là một Cốc nhỏ. Đến hiện tại, chùa là quần thể gồm đa dạng công trình kiến trúc như tượng, tháp mộ, tháp Phật, nhà tăng chúng… ở phổ biến vị trí không giống nhau.
Khác mang bất kỳ những ngôi tự của Phật giáo Bắc Tông mang cổng tam quan dẫn lối vào vườn thiền, chùa Thiền Lâm xây dựng cửa đón đồ chúng bằng cổng chào mang phong bí quyết Phật giáo Nam Tông, nhẹ nhàng nhưng ấn tượng. Vào đến chùa, tận cùng khuôn viên ở bên trái là ngôi bảo tháp màu trắng đỉnh vàng cao vút, uy nghi mà thảnh thơi. giữa nền trời. Bảo tháp với 2 phần: tầng dưới là chánh điện; tầng trên tôn trí Xá lợi Phật Thích Ca và chư Thánh tăng.Là ngôi chùa Phật giáo Nam Tông nhưng chất thiền luôn luôn rõ nét trong ko gian và các công trình kiến trúc của chùa. Không sở hữu trên mình bề dày như các ngôi chùa Bắc Tông trên vùng đất xứ Huế, chùa “Phật đứng – Phật nằm” gợi tới cảm giác “là lạ”, nhẹ nhàng và tĩnh tại toát lên từ các gì mà ngôi tự đang có.
Chùa Diệu Đế
Chùa Diệu Đế nằm bên bờ sông Đông Ba (Ảnh – nhatnguyen3089)
Chùa Diệu Đế toạ lạc bên bờ sông Hộ Thành, người Huế gọi là sông Gia Hội, hoặc sông Đông Ba, nay là số 100B tuyến phố Bạch Đằng, gần cầu Gia Hội. Chùa Diệu Đế có một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật giáo ở Huế. Chùa nguyên là phủ của vua Thiệu Trị trước lúc lên ngôi nên đã mang cảnh quan rất đẹp, với vườn tược rộng rãi, cây cối xanh tươi. Năm 1844 nhà vua đã tu chỉnh và sắc phong làm Quốc tự. Chùa trở thành một danh lam của đất kinh kỳ.
Cầu ngói Thanh Toàn
Cầu ngói Thanh Toàn (Ảnh – khiem_nd)
Cầu ngói Thanh Toàn là dòng cầu vòm bằng gỗ sở hữu mái ngói bắc qua 1 con mương làng Thanh Thủy Chánh, thuộc xã Thuỷ Thanh, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên – Huế, cách thành phố Huế khoảng 8 km về phía Đông Nam. Đây là chiếc cầu gỗ được xếp vào loại thảng hoặc và mang giá trị nghệ thuật cao nhất trong các cái cầu cổ ở Việt Nam.
Cầu ngói Thanh Toàn được vun đắp theo lối “thượng gia hạ kiều” (trên nhà, dưới cầu). Cầu dài 43 thước mộc (18,75m), rộng 14 thước mộc (5,82m), chia làm 7 gian, hai bên thân cầu mang hai dãy bục gỗ và lan can để ngồi tựa lưng. Trên cầu sở hữu mái che, lợp ngói lưu ly. Cầu đầu tiên được xây dựng cách đây hơn hai thế kỷ đã bao lần bị gió bão, lụt lội và chiến tranh tàn phá. Tuy nhiên, sau những lần hư hỏng, nhân dân phường đều chung nhau tu sửa, tôn tạo và gìn giữ.
Đồi Thiên An – Hồ Thủy Tiên
Đan Viện Thiên An nằm trên đồi (Ảnh – Vinh Ho)
Thiên An là địa danh gồm phổ biến ngọn đồi trồng thông phía Tây Nam thị thành Huế, gần lăng vua Khải Ðịnh. Trên đỉnh đồi với Tu viện Thiên An, chung nói quanh kể quẩn khu vực đồi sở hữu hồ Thủy Tiên và khu lăng mộ cổ Ba Vành, còn in dấu vết một nghi án xưa. Khung cảnh bình yên, không gian trong lành, Thiên An và Thủy Tiên là nơi nghỉ dưỡng cuối tuần khá thú vị. Hiện nay khu vực này là trọng điểm vui chơi tiêu khiển của Thừa Thiên Huế.
Đồi Vọng Cảnh
Từ trên đồi Vọng Cảnh (Ảnh – huyco)
Đồi Vọng Cảnh là 1 ngọn đồi cao 43m ở phía Tây Nam đô thị Huế, chân đồi tiếp giáp bờ sông Hương. Nó tọa lạc giữa vùng lăng tẩm của các vua chúa nhà Nguyễn và đối diện sở hữu điện Hòn Chén được thiết lập từ thời xa xưa ở phái đối ngạn. Ở quanh quất cách thức đồi Vọng Cảnh khoảng dăm bảy trăm mét là lăng Đồng Khánh, lăng Tự Đức, lăng Thiệu Trị, lăng Hiếu Đông (vợ vua Minh Mạng), lăng Xương Thọ (của bà Từ Dũ, vợ vua Thiệu Trị), lăng bà Thánh Cung (vợ vua Đồng Khánh), lăng bà Từ Cung (vợ vua Khải Định), lăng Hoàng tử Cảnh (con vua Gia Long), v.v…
Đứng trên đồi Vọng Cảnh, người ta với được một chiếc nhìn bao quát đối với nhiều di tích cổ kính và các cảnh đẹp lý tưởng ở một không gian thiên nhiên rộng lớn chung quanh, đặc biệt nhất là vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Hương. Ngọn đồi nằm giữa một khúc uốn mềm mại, dịu dàng và quyến rũ nhất của cái sông nổi danh đa tình và gợi cảm này. Đây là nơi non sông xích lại sắp nhau để tạo ra một không gian sơn kỳ thủy tú. Ý nghĩa của địa danh Vọng Cảnh là như vậy.
Điện Hòn chén
Điện Hòn Chén (Ảnh – miahkdtt)
Núi Ngọc Trản xưa với tên là Hương Uyển Sơn, sau mới đổi tên là Ngọc Trản (có tức thị chén ngọc), dân gian luôn luôn quen gọi là Hòn Chén vì nó ngay ngắn tròn trĩnh như ảnh chén úp. Cũng vì vậy, người ta quen gọi ngôi điện thờ Thánh chiếc tọa lạc giữa lưng chừng núi là điện Hòn Chén – thuộc địa bàn làng Hải Cát, phường Hương Thọ, thị xã Hương Trà.
Điện Hòn Chén là 1 cụm di tích gồm khoảng 10 công trình kiến trúc nhiều ít khác nhau đều nằm lưng chừng khuông núi Ngọc Trản, hướng mặt ra sông Hương, ẩn mình dưới các tàng cây cao bóng cả. Mặt bằng của toàn bộ cụm di tích này không lớn lắm, công trình kiến trúc chính là Minh Kính Đài tọa lạc ở giữa; bên phải là nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là dinh Ngũ Hành, bàn thờ các quan, động thờ ông Hổ, am Ngoại Cảnh. Sát mép bờ sông còn sở hữu am Thủy Phủ. Ngoài ra, trong khuôn khổ ấy còn có nhiều bệ thờ, nhiều am nhỏ nằm rải rác đó đây.
Điện Hòn Chén ko chỉ là 1 di tích lịch sử mà còn là một thắng cảnh, một điểm tham quan văn hóa độc đáo lôi kéo hàng ngàn khách tham quan, nhất là vào dịp lễ hội tháng 3 và tháng 7 Âm lịch hàng năm.
Bãi biển Thuận An
Bãi biển Thuận An (Ảnh – _hino98_)
Bãi biển Thuận An nằm kế bên cửa biển Thuận An cách thành thị Huế 15km về phía Đông, nơi mẫu sông Hương đổ ra phá Tam Giang rồi thông ra biển. Thuận An là địa điểm nhấn rất đông người dân xứ Huế về hóng mát và tắm biển vào dịp hè. Thời kỳ nở rộ nhất ở đây thường dẫn dài từ tháng 4 tới tháng 9 khi tiết trời nóng bức nhất. Du khách về Thuận An mang thể tới tham quan miếu Thái Dương ở gần đó với sự tích nữ thần Thái Dương được dân làng khôn cùng sùng bái, hoặc thăm miếu Âm Linh thờ thần cá voi, con vật linh thiêng của dân miền biển.
Bãi biển Cảnh Dương
Cảnh Dương hiện là 1 địa điểm cắm trại rất được các bạn trẻ ưa thích ở Huế (Ảnh – denis.o.135)
Cảnh Dương là 1 trong các bãi biển xinh ở Thừa Thiên Huế, cách thành thị Huế chừng 60 km về phía Nam. Bãi biển Cảnh Dương dài 8 km, rộng 200 m, hình vòng cung, nằm giữa mũi chân Mây Tây và chân Mây Ðông, bờ biển sở hữu độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn, nước biển trong xanh và tương đối kín gió rất thuận lợi cho việc công ty các loại hình du hý và thể thao.
Lăng Cô
Vịnh và bãi tắm Lăng Cô (Ảnh – lebaonguyenlbn)
Bãi tắm Lăng Cô dài khoảng 8km, nằm dọc Quốc lộ 1A, cạnh đèo Hải Vân và cách thức Vườn Quốc gia Bạch Mã 24km. Ðây là một bãi tắm có bờ biển thoải, cát trắng, sóng vừa và lớn, thủy triều lên xuống theo chế độ bán nhật triều với mức chênh lệch thấp (chỉ khoảng 0,7-0,8m), rất thích hợp cho loại hình du hý tắm biển, nghỉ dưỡng, lặn biển, và đang được dựng lại là 1 khu nghỉ mát tuyệt vời từ mấy chục năm nay. Nằm liền kề bãi tắm Lăng Cô là núi Hải Vân – Hải Vân Quan một thắng cảnh nức danh của Việt Nam. Dọc theo chân núi Hải Vân, biển Lăng Cô sở hữu dải san hô, tôm hùm và nhiều mẫu hải sản có giá trị cao. Trong khu vực đấy còn có hòn Sơn Chà (đảo nhỏ), tại đây còn bảo tàng nhiều chiếc động, thực vật hoang dã.
Phía sau bãi tắm là đầm Lập An và dãy núi Bạch Mã. Tất cả những yếu tố đó mang lại cho Lăng Cô tiềm năng to lớn về lớn mạnh nhiều cái hình dịch vụ du lịch: nghỉ mát, lặn biển, tìm hiểu hệ động – thực vật hoang dã, nuôi trồng thủy sản…
Đầm Lập An
Đầm Lập An nằm ngay sát núi Bạch Mã và vịnh Lăng Cô (Ảnh – nhanvo1511)
Đầm Lập An (đầm An Cư) nằm sắp trục tuyến đường quốc lộ 1A, đoạn qua thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc trên đường nối trong khoảng Đà Nẵng tới Huế. Đầm nằm ở vị trí tương đối đẹp lúc tọa lạc dưới chân đèo Phú Gia với bán kính rộng 15 km2. Bao lòng vòng quanh đầm là dãi núi Bạch Mã hùng vĩ, phía trước đầm là vịnh Lăng Cô
Suối Mơ
Suối Mơ là 1 địa điểm du lịch hạn chế nóng phù hợp trong những ngày hè hot bức (Ảnh – Pro Bình Đông)
Suối Mơ hay phổ biến người luôn luôn gọi thác Mơ là một địa điểm du hý lý thú nằm tại phố Lăng Cô, huyện Phú Lộc, cách tỉnh thành Huế chừng 65km. Suối Mơ đón du khách bằng rừng nguyên sinh trong sạch và mát rượi. Đây đúng là 1 địa điểm thú vị cho những gia đình mong muốn trốn chiếc nắng miền Trung trong các ngày oi bức.
Hải Vân Quan
Đèo Hải Vân (Ảnh – Nguyen Minh Son)
Ngày xưa, Hải Vân Quan là một vị trí chiến lược hiểm yếu của Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế về quân sự cũng như giao thông bằng đường bộ, đó là cửa ngỏ phía nam của vùng đất này. Hải Vân Quan nằm ở đỉnh đèo vắt qua 1 rặng núi đâm ngang ra biển trong khoảng dãy Trường Sơn. Đỉnh đèo Hải Vân ở độ cao 496m so sở hữu mực nước biển; cách Huế 77,3km về phía Nam và cách Đà Nẵng 28,7km về phía bắc.
Hải Vân Quan (Ảnh – Nguyen Phu Duc)
Trong “Dư địa chí” đầu tiên của nước ta do Nguyễn Trãi biên soạn vào năm 1435, tác giả đã nhắc đến địa danh “Ai Vân”, như là 1 yếu điểm trên con đường trong khoảng Thuận Hóa đi vào Quảng Nam. Và hiện nay, cùng sở hữu Lăng Cô – Bạch Mã – Cảnh Dương, Hải Vân Quan là một điểm đang lôi kéo du khách trong và ngoài nước tới tham quan thưởng ngoạn cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng và biển.
Vườn Quốc gia Bạch Mã
Lăng Cô nhìn từ trên đỉnh Bạch Mã (Ảnh – tyboovip)
Vườn Quốc gia Bạch Mã cách Huế 60km về phía Nam, ở độ cao 1.450m, là kênh nghỉ mát nổi tiếng ở Việt Nam. Trên đỉnh núi hùng vỹ 4 mùa xanh tươi với thác nước, suối rừng, là cả 1 vùng khí hậu ôn đới như ở SaPa, Tam Ðảo, Ðà Lạt… Núi Bạch Mã còn là nơi tập kết nhiều dòng động vật và thực vật quý hi hữu ở miền nhiệt đới.
Thác Đỗ Quyên trong Vườn Quốc gia Bạch Mã (Ảnh – Huong Nguyen)
Núi Bạch Mã nổi tiếng bởi có những con suối và phổ biến ngọn thác ngoạn mục. Thác Ðỗ Quyên cao 400m, rộng 20m, nhữngngày hè, hai bên bờ thác, hoa Ðỗ Quyên sôi động như 2 thảm lụa hoa khổng lồ. Ở trọng tâm khu nghỉ mát với ngọn thác Bạc cao 10m, rộng 40m như một bức rèm trắng muốt đong đưa trước gió.
Ðứng trên đỉnh núi Bạch Mã bạn sở hữu thể thu vào tầm mắt toàn cảnh lộng lẫy của đèo Hải Vân, núi Túy Vân, đầm Cầu Hai và ánh điện lung linh của tỉnh thành Huế vào ban đêm.
Hồ Truồi
Hồ Truồi (Ảnh – chauchau_lizz)
Hồ Truồi mang diện tích khoảng 400 ha, dung tích lòng hồ tới 60 triệu mét khối nước, là công trình thủy lợi to nhất ở tỉnh Thừa Thiên – Huế, với mục đích tưới tiêu cho đồng ruộng các xã Lộc Hòa, Lộc Điền thuộc huyện Phú Lộc. Trước kia diện tích hồ lòng hồ rất nhỏ. Đập Truồi ngăn nước cao 50 mét được tỉnh giấc Thừa Thiên – Huế xây dựng vào năm 1996.
Khu du hý Hồ Truồi nằm dưới chân dãy Bạch Mã hùng vĩ. Đến hồ Truồi du khách sẽ thấy một vùng nước trong xanh được bao bọc bởi các dãy núi xanh ngát, phong cảnh sơn thủy hữu tình.
Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã
Thuộc Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã là ngôi thiền viện trước tiên tại miền Trung, tọa lạc tại núi Bạch Mã, khu vực hồ Truồi, xã Lộc Hòa, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ở độ cao 1450m, nhiệt độ thường trong khoảng 19-21 oC, Bạch Mã được nhìn thấy là một trong các vùng khí hậu lý tưởng. Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã hiện lên giữa lòng Hồ Truồi như một đóa hoa, gối đầu vào núi rừng Bạch Mã trải dài hút mắt.
Từ thành thị Huế xuôi về Nam khoảng 30 km, đến địa phận xứ Truồi, đi vào Đập Truồi, vượt hết dốc thoải bên lưng đồi, một bức tranh thủy mặc sinh động hiện ra. Bên kia bờ nước, dưới chân ngọn linh sơn, những tổ đường, chính điện, tăng đường, trai đường, phương trượng, lầu chuông, tháp xá lợi soi bóng xuống gương nước hồ Truồi, xa xa là những vờn mây quyện nói quanh đề cập quẩn những đỉnh núi vừa mới tạo nên một không gian hư ảo, thanh tịnh và im bình.
Vượt qua lòng hồ Truồi mênh mang sóng nước, độ chừng mươi chục phút, bằng các con xuồng nhỏ, sẽ tới thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Bước lên khỏi 172 bậc tam cấp là tam quan của Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã. Được vun đắp hài hoà trong 1 chỉnh thể của kiển trúc Phật giáo và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Trúc Lâm Bạch Mã cũng mang chính điện thờ Phật tổ vừa mới ngồi tu niệm dưới nguồn cây nhân tình đề, phía sau chính điện là khu vực tổ tuyến đường thờ tổ tông Đạt ma của thiền phái Trúc Lâm.
Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã là một quần thể danh lam giữa vùng sơn thủy hữu tình đang trở thành liên hệ tham quan cho du khách thập phương khi đến có vùng đất cô đô Huế.
Thác Đá Dăm
Đá Dăm là một ngọn thác nhỏ ở Dương Hòa, thị phố Hương Thủy. Bạn có thể tổ chức cùng gia đình, bạn bè tới đây vui chơi, tắm mát vào các ngày nghỉ. Từ trung tâm TP Huế, có 2 đường đến thác: một là men theo trục đường qua công trình hồ Tả Trạch; hai là đi theo hướng cầu Tuần, qua bến đò Tân Ba.
Xuất phát theo hướng cầu Tuần, chúng ta sẽ dễ dàng tìm được thức ăn tươi hoặc một số nông sản địa phương ở chợ quê. Gặp mùa thanh trà, đừng quên ghé vào một số vườn cây bên đường, vừa thưởng ngoạn phong cảnh, vừa tậu đặc sản này với theo giải khát.
Đường tới thác khá hoang vu nên rất thích hợp với những người thích phiêu bạt bằng xe máy, đặc biệt là các bạn trẻ. Muốn chinh phục độ cao, đón mẫu nước đầu nguồn, hãy hợp lý bị thật kỹ để không bị trượt chân khi men theo những vách đá dựng đứng; bạn cũng với thể thỏa sức vui đùa ở hồ nước mát lạnh bên dưới thác. Ai lãng mạn thì đi hái hoa rừng, tìm sim chín… Trên trục đường vào thác có 1 căn nhà nhỏ của Kiểm lâm Hương Thủy. Các anh viên chức sẽ là những “thổ địa” cung cấp phổ biến thông tin hữu dụng về con người, sinh vật khu vực này. Nếu gặp cạnh tranh trong việc đi lại, tìm kiếm nước uống… đừng ngại ngần mở lời xin giúp đỡ.
Suối khoáng Thanh Tân
Nước khoáng Thanh Tân nằm sâu hàng nghìn mét dưới lòng đất, chứa Calcium Sunfat và Silicium… rất rẻ cho cơ thể. Vì thế, đây là điểm tới thích hợp mang nhiều du khách trong tiết trời se se lạnh, giao mùa.
Được phát hiện năm 1928 bởi những nhà kỹ thuật Pháp, suối khoáng Thanh Tân nhanh chóng được nghiên cứu, ứng dụng làm nước đái khát phục hồi sức khỏe con người. Năm 1983, nguồn nước này được Bộ Y tế cho phép khai thác làm nước uống đóng chai. Tuy nhiên, đến cuối năm 2000, khu du lịch suối nước khoáng Thanh Tân mới phát triển thành thông dụng và được nhiều người biết tới. Khu du hý suối khoáng Thanh Tân vun đắp trên diện tích 50 ha. Bên cạnh các dãy núi cao ngất là những quả đồi được tạo hóa gần xếp liền kề. Màu xanh của núi rừng, cây cỏ đã tạo cho khách cảm giác thư thái, dễ chịu ngay từ phút đầu tiên.
Khu du hý nước khoáng Thanh Tân còn có 1 sân chơi phổ quát để đốt lửa trại hoặc đơn vị văn nghệ vào những buổi dã ngoại ban đêm. Sau rộng rãi giờ ngâm tắm, bụng đói cồn cào, bạn sẽ ngon mồm hơn với đĩa cá rô nuôi bằng nước khoáng, chiên ròn thơm phức trong những lều tranh xinh xẻo bên hồ sen ngào ngạt hương.
Hệ thống các đầm Phá Tam Giang
Đầm Chuồn
Hoàng hôn trên đầm Chuồn (Ảnh – cungphuot.info)
Đầm Chuồn thuộc huyện Phú Vang với diện tích hơn 100ha, nằm bí quyết trung thành tâm phố Huế gần 15 km về phía đông. Đây là một phần trong nền tảng đầm phá Tam Giang sở hữu bầu không khí trong lành, thanh bình
Đầm Thủy Tú
Hoàng hôn trên đầm Thủy Tú (Ảnh – Ty dai ca)
Đầm Thủy Tú là 1 trong ba đầm phá hợp thành hệ đầm phá Tam Giang. Đầm Thủy Tú bao gồm: đầm An Truyền, Thanh Lam (Sam), Hà Trung và Thủy Tú. Đầm Thủy Tú kéo dài trong khoảng cầu Thuận An đến Cồn Trai trên chiều dài 33km. Chiều rộng đầm biến đổi từ 0,5km (đầm Thủy Tú) đến 5,5km (đầm An Truyền ), trung bình 1,8km, chiều sâu đầm đổi thay từ 1 – 1,5m đến 3 – 5m tùy thuộc khu vực, nhưng đa dạng là 1,5 – 2m. Diện tích mặt nước của đầm đến 60km. Đây là 1 địa danh có rộng rãi cảnh xinh và các sản vật nổi tiếng
Đầm Chuồn là một phần trong hệ thống Đầm Thủy Tú, đi qua quốc lộ 49 rẽ về hướng An Truyền, qua những cánh đồng thơm mùi lúa chín đầm Chuồn hiện ra trong sự bình yên. Đặc biệt, thiên nhiên đầm Chuồn lý tưởng hơn vào mỗi sáng sớm và buổi chiều tà với các mảng màu đa sắc.
Phá Tam Giang
Tam Giang là hợp lưu của ba con sông Ô Lâu, sông Bồ và sông Hương trước khi đổ vào biển Đông. Vì thế phá Tam Giang với tính “biểu tượng” về môi trường thọ thái của Thừa Thiên – Huế xưa và nay. Không một du khách nào tới đây, lại bỏ qua địa danh nức danh này.
Đây là vùng đất ngập mặn to nhất Đông Nam Á, mặt nước rộng 248,7 km2, khơi đầu từ cửa sông Ô Lâu ở phía bắc tới cửa sông Hương ở phía nam. Đầm phá bao đời nay sở hữu rất rộng rãi động vật thủy sinh, nhiều nhất ở những cửa biển Thuận An, cửa sông Ô Lâu, sông Bồ, đầm Thủy Tú. Cầu Hai, Hiện nay đang xác định được 163 loài cá, nhiều loài quý hãn hữu như cá vược, cá chình. Tùy theo mùa, còn 1 số loài cá di cư vào đầm phá để sinh sản giống như cá mòi, cá cơm biển… Ngược lại, cá đối, cá mú, cá dìa sống trong đầm phá lại di cư ra biển để đẻ trứng. Quanh năm, ngư dân đánh bắt được trên đầm phá khoảng 23 loài cá mang giá trị kinh tế cao là cá dầy, cá dìa, cá bống thệ, cá hanh, cá hồng, cá căn…
Bề mặt đầm phá có thảm thực vật bất chợt nên những loài chim nước tụ tập về đây, tạo thành các sân chim to tại cửa sông Ô Lâu, cửa sông Đại Giang và đầm Sam. Qua theo dõi, đã phát hiện được 34 loài chim di cư, 36 loài chim định cư, đặc biệt mang 21 loài chim thuộc danh mục bảo vệ nghiêm ngặt của cùng đồng Châu Âu và 1 loài mang tên trong Sách đỏ Việt Nam.
Đầm phá đối diện sở hữu biển Đông trải dài hơn 68 km, chỉ ngăn cách sở hữu biển bởi 1 dãi cát hẹp, thông thương qua 2 cửa biển Thuận An và Tư Hiền. Do ấy nó mang khả năng tự làm cho sạch nơi nước và luôn được sóng gió biển Đông ùa vào bên trong, trở thành một “buồng phổi” lớn để điều hòa môi trường sinh thái cho toàn tỉnh giấc Thừa Thiên Huế một cách thiên nhiên và thường xuyên.
Đầm Cầu Hai
Đầm Cầu Hai là khu đầm lớn nhất trong nền móng đầm của phá Tam Giang, chu vi lên tới hơn 100km, nằm ở phía Nam – trên địa phận quận Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. Để đến được đây thì bạn mang thể đi theo 2 đường: một là trong khoảng ngã 3 trường bay Phú Bài, đi theo đường Phú Bài – Trường Hà hướng ra biển, gặp QL 49B rẽ phải khoảng 30km là cửa Tư Hiền, đó là ngành chụp đầm Cầu Hai đẹp nhất, hoặc là đi theo QL 1A trong khoảng Huế vào Đà Nẵng, đến khu vực Ga Cầu Hai sẽ thấy ngay bên trái là đầm Cầu Hai. Đi thêm khoảng 8km nữa là lại gặp QL 49B để rẽ trái vào cửa Tư Hiền được.
Nguồn: https://cungphuot.info